Mặc dù các tiêu chuẩn PFI và ISO có vẻ rất giống nhau ở nhiều khía cạnh, nhưng điều quan trọng cần lưu ý là có những khác biệt tinh tế trong các thông số kỹ thuật và phương pháp thử nghiệm được tham chiếu, vì PFI và ISO không phải lúc nào cũng có thể so sánh được.
Gần đây, tôi được yêu cầu so sánh các phương pháp và thông số kỹ thuật được tham chiếu trong tiêu chuẩn PFI với tiêu chuẩn ISO 17225-2 có vẻ tương tự.
Hãy nhớ rằng các tiêu chuẩn PFI được phát triển cho ngành công nghiệp viên gỗ Bắc Mỹ, trong khi trong hầu hết các trường hợp, các tiêu chuẩn ISO mới được công bố rất giống với các tiêu chuẩn EN trước đây, được viết cho các thị trường châu Âu. ENplus và CANplus hiện tham chiếu các thông số kỹ thuật cho các loại chất lượng A1, A2 và B, như được nêu trong ISO 17225-2, nhưng các nhà sản xuất chủ yếu sản xuất "loại A1".
Ngoài ra, trong khi các tiêu chuẩn PFI cung cấp các tiêu chí cho các loại cao cấp, tiêu chuẩn và tiện ích, thì phần lớn các nhà sản xuất đều sản xuất loại cao cấp. Bài tập này so sánh các yêu cầu của loại cao cấp của PFI với loại ISO 17225-2 A1.
Tiêu chuẩn PFI cho phép phạm vi mật độ khối từ 40 đến 48 pound trên một foot khối, trong khi ISO 17225-2 tham chiếu phạm vi từ 600 đến 750 kilôgam (kg) trên một mét khối. (37,5 đến 46,8 pound trên một foot khối). Các phương pháp thử nghiệm khác nhau ở chỗ chúng sử dụng các thùng chứa có kích thước khác nhau, các phương pháp nén khác nhau và chiều cao đổ khác nhau. Ngoài những khác biệt này, cả hai phương pháp đều có mức độ biến thiên lớn do thử nghiệm phụ thuộc vào từng kỹ thuật. Bất chấp tất cả những khác biệt này và sự biến thiên vốn có, hai phương pháp dường như tạo ra những kết quả tương tự nhau.
Phạm vi đường kính của PFI là 0,230 đến 0,285 inch (5,84 đến 7,24 milimét (mm). Điều này được hiểu là các nhà sản xuất Hoa Kỳ chủ yếu sử dụng khuôn một phần tư inch và một số kích thước khuôn lớn hơn một chút. ISO 17225-2 yêu cầu các nhà sản xuất phải khai báo 6 hoặc 8 mm, mỗi kích thước có dung sai cộng hoặc trừ 1 mm, cho phép phạm vi tiềm năng từ 5 đến 9 mm (0,197 đến 0,354 inch). Vì đường kính 6 mm giống nhất với kích thước khuôn một phần tư inch (6,35 mm) thông thường, nên người ta mong đợi rằng các nhà sản xuất sẽ khai báo 6 mm. Không chắc chắn về cách sản phẩm có đường kính 8 mm sẽ ảnh hưởng đến hiệu suất của bếp. Cả hai phương pháp thử nghiệm đều sử dụng thước cặp để đo đường kính tại đó giá trị trung bình được báo cáo.
Về độ bền, phương pháp PFI tuân theo phương pháp tumbler, trong đó kích thước buồng là 12 inch x 12 inch x 5,5 inch (305 mm x 305 mm x 140 mm). Phương pháp ISO sử dụng một tumbler tương tự nhưng nhỏ hơn một chút (300 mm x 300 mm x 120 mm). Tôi không thấy sự khác biệt về kích thước hộp gây ra sự khác biệt đáng kể trong kết quả thử nghiệm, nhưng về mặt lý thuyết, hộp lớn hơn một chút có thể gợi ý một thử nghiệm tích cực hơn một chút đối với phương pháp PFI.
PFI định nghĩa vật liệu mịn là vật liệu đi qua lưới kim loại một phần tám inch (lỗ vuông 3,175 mm). Đối với ISO 17225-2, vật liệu mịn được định nghĩa là vật liệu đi qua lưới lỗ tròn 3,15 mm. Mặc dù kích thước lưới 3,175 và 3,15 có vẻ giống nhau, nhưng vì lưới PFI có lỗ vuông còn lưới ISO có lỗ tròn nên sự khác biệt về kích thước lỗ là khoảng 30 phần trăm. Do đó, thử nghiệm PFI phân loại phần lớn vật liệu là vật liệu mịn khiến cho việc vượt qua thử nghiệm vật liệu mịn PFI trở nên khó khăn hơn, mặc dù có yêu cầu về vật liệu mịn tương đương đối với ISO (cả hai đều tham chiếu giới hạn vật liệu mịn là 0,5 phần trăm đối với vật liệu đóng bao). Ngoài ra, điều này khiến kết quả thử nghiệm độ bền thấp hơn khoảng 0,7 khi thử nghiệm theo phương pháp PFI.
Đối với hàm lượng tro, cả PFI và ISO đều sử dụng nhiệt độ khá giống nhau để tro hóa, 580 đến 600 độ C đối với PFI và 550 độ C đối với ISO. Tôi chưa thấy sự khác biệt đáng kể nào giữa các nhiệt độ này và tôi cho rằng hai phương pháp này mang lại kết quả tương đương nhau. Giới hạn PFI đối với tro là 1 phần trăm và giới hạn ISO 17225-2 đối với tro là 0,7 phần trăm.
Về chiều dài, PFI không cho phép hơn 1 phần trăm dài hơn 1,5 inch (38,1 mm), trong khi ISO không cho phép hơn 1 phần trăm dài hơn 40 mm (1,57 inch) và không có viên nào dài hơn 45 mm. Khi so sánh 38,1 mm 40 mm, thử nghiệm PFI nghiêm ngặt hơn, tuy nhiên, thông số kỹ thuật ISO không cho phép viên nào dài hơn 45 mm có thể khiến thông số kỹ thuật ISO nghiêm ngặt hơn. Đối với phương pháp thử nghiệm, thử nghiệm PFI kỹ lưỡng hơn, ở chỗ thử nghiệm được thực hiện trên kích thước mẫu tối thiểu là 2,5 pound (1.134 gram) trong khi thử nghiệm ISO được thực hiện trên 30 đến 40 gram.
PFI và ISO sử dụng các phương pháp nhiệt lượng kế để xác định giá trị nhiệt và cả hai phép thử được tham chiếu đều mang lại kết quả tương đương trực tiếp từ thiết bị. Tuy nhiên, đối với ISO 17225-2, giới hạn quy định cho hàm lượng năng lượng được thể hiện là giá trị nhiệt lượng ròng, còn được gọi là giá trị nhiệt lượng thấp hơn. Đối với PFI, giá trị nhiệt lượng được thể hiện là giá trị nhiệt lượng gộp hoặc giá trị nhiệt lượng cao hơn (HHV). Các thông số này không thể so sánh trực tiếp. ISO đưa ra giới hạn mà các viên A1 cần phải lớn hơn hoặc bằng 4,6 kilowatt-giờ trên kg (tương đương với 7119 Btu trên pound). Tiêu chuẩn PFI yêu cầu nhà sản xuất phải tiết lộ HHV tối thiểu khi nhận được.
Phương pháp ISO cho clo tham chiếu đến sắc ký ion là phương pháp chính, nhưng có ngôn ngữ cho phép một số kỹ thuật phân tích trực tiếp. PFI liệt kê một số phương pháp được chấp nhận. Tất cả đều khác nhau về giới hạn phát hiện và thiết bị cần thiết. Giới hạn của PFI đối với clo là 300 miligam (mg), trên kilôgam (kg) và yêu cầu của ISO là 200 mg trên kg.
PFI hiện không có kim loại nào được liệt kê trong tiêu chuẩn của mình và không có phương pháp thử nghiệm nào được chỉ định. ISO có giới hạn cho tám kim loại và tham chiếu đến phương pháp thử nghiệm ISO để phân tích kim loại. ISO 17225-2 cũng liệt kê các yêu cầu đối với một số thông số bổ sung không có trong các tiêu chuẩn PFI, bao gồm nhiệt độ biến dạng, nitơ và lưu huỳnh.
Mặc dù các tiêu chuẩn PFI và ISO có vẻ rất giống nhau ở nhiều khía cạnh, nhưng điều quan trọng cần lưu ý là có những khác biệt tinh tế trong các thông số kỹ thuật và phương pháp thử nghiệm được tham chiếu, vì PFI và ISO không phải lúc nào cũng có thể so sánh được.
Thời gian đăng: 27-08-2020